“Công ty Yakult không chỉ được biết đến như một nhà tiên phong trong lĩnh vực probiotics mà còn tích cực nghiên cứu khả năng miễn dịch của niêm mạc ruột, sử dụng phương pháp nghiên cứu tiên tiến, mang lại sức khỏe cho mọi người trên thế giới”
Ngày nay các loại thuốc vaccine và thuốc kháng sinh được sử dụng để chữa trị ngăn ngừa các bệnh truyền nhiễm. Tuy nhiên trong những năm gần đây người ta cũng nhận ra rằng cách chữa trị bằng thuốc kháng sinh có thể làm xuất hiện những vi sinh vật kháng thuốc. Do đó thế giới bắt đầu quan tâm đến Probiotic như một loại để thay thế antibiotic. Chủng khuẩn Lacticaseibacillus paracasei Shirota (*) trong sữa Yakult là một loại probiotic có tác dụng tích cực trong việc bảo vệ sức khỏe của con người.
Người tạo ra sản phẩm sữa uống Yakult là giáo sư Minoru Shirota. Vào thời điểm giáo sư Minoru Shirota bắt đầu nghiên cứu trong lĩnh vực y học, nhiều trẻ em Nhật đã chết do các căn bệnh truyền nhiễm bởi điều kiện sống mất vệ sinh. Quan tâm sâu sắc về vấn đề này, giáo sư Shirota đã xác định dành cuộc đời của mình vào lĩnh vực y học phòng ngừa, đó là lý do ông chuyển sang quan tâm đến vi sinh vật học. Giáo sư Shirota đã nhận thấy vi khuẩn axit lactic có khả năng chống lại vi khuẩn xấu sống trong đường ruột, và ông đã thành công trong việc nghiên cứu một chủng lactobacilli. Với chủng khuẩn mới này, ông đã phát triển một sản phẩm tuyệt vời là sữa uống lên men với giá cả hợp lý mà mọi người có thể thưởng thức lợi ích của chủng Lacticaseibacillus paracasei Shirota (*) (LcS). Quan điểm của giáo sư là đề cao “y học phòng ngừa hơn là chữa bệnh” và “đường ruột khỏe mạnh có cuộc sống lâu dài”. ông hi vọng nhiều người có thể sử dụng chủng khuẩn LcS để cải thiện sức khỏe đường ruột, vì vậy ông muốn chia sẻ đến cho mọi người một sản phẩm có lợi cho sức khỏe mọi người với giá cả hợp lý. Quan niệm này được gọi là “thuyết Shirota”, đây là cơ sở triết lý kinh doanh của công ty với việc tiếp tục sự nghiệp của giáo sư Shirota cho tới ngày nay: “Chúng tôi muốn mang đến sức khỏe và hạnh phúc của mọi người trên thế giới thông qua sự theo đuổi các thành tựu khoa học của sự sống”. Chúng tôi đã phát triển công việc kinh doanh của mình dựa trên triết lý này.
Công ty Yakult Honsha đã hợp tác chặt chẽ với 252 nhà khoa học và tiến sỹ khoa học, không ngừng theo đuổi các hoạt động nghiên cứu để tiếp tục tìm tòi và phát triển các đặc tính có lợi của khuẩn sữa trong sản phẩm Yakult. Hiện nay có thể thực hiện một cách chi tiết về phản ứng miễn dịch và sinh lý của hệ tiêu hóa khi sử dụng sinh vật thí nghiệm mới, như là trên chuột. Tại viện nghiên cứu trung tâm Yakult, chúng tôi sản xuất chuột được cấy ghép với các vi khuẩn sợi phân đốt (SFB), công việc này bắt đầu từ hơn 100 năm trước, sử dụng khả năng liên kết mạnh mẽ với các tế bào biểu mô. Chúng tôi đã phân tích phản ứng sinh lý trên chuột, bao gồm phản ứng niêm mạc ruột với vi khuẩn SFB. Vào những năm 1990, chúng tôi thấy phương pháp SFB giúp tuyển chọn tế bào bạch huyết của biểu mô, kích thích tăng cường sản xuất kháng thể IgA, cải thiện các tế bào biểu mô khác, và tăng sự lưu thông glucoprotein và glucolipit. Chúng tôi đã đề xuất khả năng mà phương pháp SFB cần thiết cho nghiên cứu đặc tính sinh lý vật chủ một cách chắc chắn. Đối với khả năng miễn dịch niêm mạc ruột, tương tác giữa vật chủ và vi khuẩn đường ruột đã trở nên rõ ràng, nhờ vào phát hiện của tế bào hỗ trợ T (Th) và sự phát triển của bộ phân tích gen pyrosequencing. Những hợp tác nghiên cứu khác bao gồm Tiến sĩ Kenya Honda (Đại học Osaka) và Giáo sư Dan Littman (Đại học Y Khoa New York) “Viện nghiên cứu trung tâm Yakult về vi sinh vật” đã giúp khám phá ra sự cảm ứng của tế bào Th17. SFB là chìa khóa quan trọng trong việc góp phần vào nghiên cứu của Tiến sĩ Mazmanian (Viện công nghệ Califonia) và Tiến sĩ Mathis (Đại học Havard) bằng cách sử dụng các động vật thí nghiệm để xác định vai trò của các tế bào Th17 trong chứng bệnh tự nhiễm. Các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới tiếp tục được sử dụng rộng rãi SFB như một công cụ để nghiên cứu hệ thống miễn dịch niêm mạc.
Gần đây, các phương pháp sinh học phân tử đã được phát triển với các nghiên cứu vi sinh nhắm vào gen riboxome RNA. Những phương pháp này bao gồm các phương pháp tạo bản sao, DGGE (điện di gel gradient biến tính nồng độ)/TGGE (điện di trên gel biến tính nhiệt độ), T-RFLP, FISH Kỹ thuật lai huỳnh quang tại chỗ (FISH: Fluorescence insitu hybridization), kĩ thuật định lượng PCR (qPCR), và kĩ thuật microrrays. Những nghiên cứu chuyên sâu về các vi khuẩn đường ruột chiếm ưu thế bao gồm cả những chủng chưa xác định đã chỉ cho chúng ta sự hiểu biết toàn diện về cách thức vi khuẩn ảnh hưởng tới vật chủ của chúng. Những nghiên cứu này đã có thể được thực hiện bằng những phương pháp phân tích theo trình tự thế hệ mới tiếp theo như pyrosequencing. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề chưa được giải quyết bằng phương pháp này, bao gồm cả độ nhạy cảm và độ chính xác của việc phát hiện.
Với những phương pháp này, gần đây chúng tôi đã phát triển một máy quét hệ vi sinh vật đường ruột Yakult (YIF-SCAN), dựa vào phương pháp PCR phiên mã ngược, sử dụng mồi đặc hiệu với mục tiêu là tạo ra các phân tử rRNA vi khuẩn, mà hiện nay có từ 1000 tới 10000 bản sao mỗi tế bào, thay vì các gen rRNA (có mặt từ vài đến vài chục bản sao mỗi tế bào) là mục tiêu của các phương pháp sinh học phân tử thông thường, với RT-qPCR có độ nhạy cảm gấp 100 đến 1000 lần so với các phương pháp cũ. Kết quả là, phân tích vi sinh với một loạt các chức năng lớn nổi bật trở nên khả thi. Kỹ thuật YIF-SCAN cho thấy không chỉ về giá trị số lượng sự phong phú của nhóm vi sinh vật đường ruột tương đương với các giá trị thu được với phương pháp thông thường, mà còn đo chính xác chỉ số coliforms và chỉ số lactobacilli mặc dù số lượng thấp nhưng được cho là có lợi đối với sức khỏe con người (10,000-100,000,000 tế bào / 1g chất thải). Nó cũng cung cấp một giá trị định lượng chính xác phản ánh chính xác số lượng các vi khuẩn hoạt động, như mục đích của nó là phân tử rRNA thay vì gen rRNA. Tiện ích trong phỏng đoán lâm sàng của YIF-SCAN đã được chứng minh bằng cách vận dụng sự nhạy cảm rất cao của thiết bị. Sakaguchi và cộng sự (2010) đã thành công trong việc phát hiện vi khuẩn trong máu ngoại vi của bệnh nhân sốt neutropaenia, được hỗ trợ bởi tỉ lệ phát hiện vi khuẩn cao và thời gian quay vòng ngắn của phương pháp này. Mizuno và cộng sự đã thực hiện sự chuyển vi khuẩn (bacteria translocation (BT)) vào hạch bạch huyết ở màng treo ruột trong quá trình phẫu thuật ung thư đường mật bằng cách sử dụng máy quét YIF-SCAN. Với sự xuất hiện cao hơn các bệnh nhiễm trùng sau phẫu thuật của các bệnh nhân được thực hiện việc chuyển khuẩn, các chẩn đoán ban đầu cho rằng các bệnh nhiễm trùng sau phẫu thuật có thể được giả quyết bằng cách sử dụng máy quét YIF-SCAN.
Cùng với các công trình nghiên cứu khoa học, Công ty Yakult đã luôn thực hiện theo nguyên tắc nghiên cứu cơ bản và phát triển sản phẩm Yakult: Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu thành phần mới của thực phẩm, dược phẩm và mỹ phẩm mà có thể duy trì và phát triển sức khỏe của con người từ quan điểm phòng ngừa. Trong thực phẩm chúng tôi tập trung vào loại “thực phẩm chức năng” mà duy trì và nâng cao hơn nữa cơ chế điều hòa cơ thể cũng như áp dụng nghiên cứu phát triển sản xuất. Chúng tôi còn tập trung vào nghiên cứu này để phát triển dược phẩm bao gồm các loại thuốc chống lại tác nhân gây ung thư và các loại thuốc liên quan. Trong khi đó chúng tôi còn tham gia vào nghiên cứu và phát triển mỹ phẩm an toàn và hiệu quả hơn từ quan điểm về vi sinh vật và da. Chúng tôi tích cực áp dụng chuyên môn và kỹ thuật công nghệ hiện đại vào lĩnh vực vi sinh vật, dinh dưỡng, sinh lý, miễn dịch học, hóa sinh, công nghệ sinh học, hóa hữu cơ, enzyme, các sản phẩm hóa học tự nhiên, dược phẩm, và hóa phân tích. Trong nghiên cứu, chúng tôi coi trọng cả mức độ an toàn và hiệu quả của sản phẩm. Vì vậy viện nghiên cứu Yakult, nghiên cứu về vi sinh vật tại Tokyo luôn có các thiết bị nghiên cứu tối tân để kiểm tra độ an toàn của thực phẩm. Chúng tôi phải tiến hành kiểm tra mức độ an toàn từ nguyên liệu ban đầu đến sản phẩm cuối cùng của thực phẩm, dược phẩm, và mỹ phẩm để phát triển các sản phẩm an toàn cho người sử dụng.
(*): Tên gọi trước đây là Lactobacillus casei Shirota
P.T.Hang (Nguồn: Nature Insight Journal)